Non nước Việt Nam

Khèn Mông mùa xuân gọi bạn tình

Cập nhật: 23/02/2013 10:22:02
Số lần đọc: 2773
Cây Khèn và tiếng nói của khèn đã gọi trăng, đón gió, gọi cô gái có đôi mắt đa tình xinh đẹp vượt qua mùa xuân xanh, vượt đá xanh, trời xanh về với mình. Gọi là “kéo vợ” hay vợ chạy theo thì cũng chẳng ai biết rõ, chỉ có cô gái, chàng trai, đôi bàn tay “dính” vào nhau “qua năm đồi, bảy suối” mới biết, rồi tình nguyện thả hồn vào tiếng khèn của chàng trai đã bao đêm gọi bạn.

Tiếng khèn gọi bạn tình

 

Nghe kể ngày xửa, ngày xưa, con gái người Mông khi đi lấy chồng phải giỏi tay thêu thùa, may vá, ít nhất cũng biết dệt vải, se lanh, may cho bố mẹ chồng, anh em nhà chồng những bộ quần áo trong ngày cưới của mình. Còn người đàn ông Mông khi muốn trở thành người đàn ông thực thụ của cộng đồng, thành người chồng chính thức của một cô sơn nữ xinh đẹp nào đấy, là cha của những đứa con sau một mùa xuân “kéo vợ” thì ít nhất cũng phải biết làm cho mình một cây khèn, dù biết rằng chàng trai kém cô gái tới vài ba hay cả chục tuổi.

 

Tôi đã đi hàng trăm phiên chợ Tết trên khắp vùng người Mông sinh sống, chợ nào chẳng có tiếng khèn nơi “đầu đường, cuối chợ” mà réo rắt mời gọi bạn tình. Chợ nào, lễ hội nào chẳng có hàng chục cô gái Mông vây quanh những chàng trai Mông vừa thổi khèn, vừa nhào lộn. Để đường về say mèn vì rượu, vì tình mà đôi má đỏ ửng, mắt long lanh, căng chiếc ô che cho chàng trai với cây khèn đã bóng khói bếp, bóng mồ hôi năm tháng.

 

Đi tìm hình hài của cây khèn

 

Đã rất nhiều lần tự hẹn với mình, rồi lại tự thất hứa với mình, đi tìm hình hài của cây khèn Mông, cây khèn đã mang âm sắc của một vùng văn hoá. Vậy mà mãi đến hôm nay, tôi mới trở về với tiếng khèn bằng hình hài chân chất của bầu gỗ, lóng trúc, lưỡi đồng, quấn vỏ đào rừng vàng óng trong đôi tay người nghệ nhân già, nơi xóm núi. Nơi ấy là xóm Tả Cù Ván thuộc xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.

 

Đi theo tiếng khèn mùa xuân, mùa “kéo vợ”, từ phố huyện Đồng Văn tôi quyết tâm đến xóm Tả Cù Ván, xã Hố Quáng Phìn, muốn xuống tận nơi để được chứng kiến những nghệ nhân làm khèn, làm ra cái cây tâm tình mang lời của gió ở nơi đỉnh gió này. Đây cũng là một ân huệ ngàn đời của một dân tộc, chắt chiu những tinh hoa, để lại cho đời, cho nhân loại một di sản văn hóa vừa là vật thể, vừa là phi vật thể. Cây khèn Mông, một nhạc cụ không thể tách rời với đời sống văn hoá người Mông và cũng là sự kết tinh, là sự thẩm thấu, sự giao thoa của bao ngàn đời để lại.

 

Qua gần một buổi sáng cuốc bộ, lên đèo, xuống thung, ngồi thở bên vách đá, uống những giọt nước tinh túy được chắt ra từ đá. Xế trưa, tôi tìm đến gia đình ông Mua Sính Pó, một lão khèn vùng đá mà được nhân dân trong vùng gọi là “thần khèn”. Một con người mà mấy chục năm qua đã chuyên tâm truyền nghề và chế tác những cây khèn, những cây khèn mang cả một nền văn hoá dân tộc Mông ở nơi ông. Năm nay ông Mua Sính Pó đã trên sáu mươi tuổi, có gần bốn mươi năm làm nghề gọt cây, chắp gió, thành lời yêu, lời nhớ.

 

Theo ông Pó: “Muốn có một cây khèn mang đúng những âm thanh của người Mông bao đời nay thì phải chọn được thân gỗ kim giao vừa ý, chọn được những gióng trúc vừa tầm và không thể thiếu tính kiên nhẫn của người làm ra nó. Khèn của người Mông được làm hoàn toàn bằng những kinh nghiệm cha truyền, con nối, áng chừng bầu gió khoét rộng dài bao nhiêu là vừa đủ, áng chừng gióng trúc to nhỏ thế nào là đến tầm...”.

 

Nói rồi ông Mua Sính Pó nhìn tôi cười, tay ông với cây khèn mới làm xong treo trên vách đưa lên môi, ngón tay ông lần lần đưa vào những khuyết gió để cây khèn thả vào không gian đá trầm ấm một âm thanh đến mê hồn. Say... rất say... vai ông đặt xuống mặt đất, hai chân ông vuốt lên trời đối xứng với cây khèn mà lóng gió vẫn cứ mở đều theo điệu chân ông đạp, theo những ngón tay ông mở lóng hay đóng khuyết. Anh con trai ông ở đâu về thấy bố đang biểu diễn khèn, anh cũng với cây khèn trên gác ngô, lau đầu bầu gió vào áo, quệt ngang lưỡi đồng, lấy hơi và hai cây khèn “bố con” bắt đầu chờ nhịp hay chọn nhịp.

 

Giữ gìn bản sắc văn hóa của người Mông

 

Chiều xuống nhanh hơn trên vùng đá, tôi theo đường về huyện. Đứng trên “võng gió” nơi đỉnh dốc châm thuốc hút cho đỡ rét, rồi ngoái lại nhìn xóm Tả Cù Ván trong sương, trong mây. Nơi ấy có một trăm hai mươi tám nóc nhà, đằng sau xóm trên lưng chừng núi là một rừng trúc chạy dài óng ánh khi hoàng hôn tím sẫm. Lời ông Mua Sính Pó lại trầm trầm mà vang lên đâu đó: “Cái nghiệp làm khèn nó khác với cày nương đá, khác với chăn nuôi dê bò, cũng khác với cạy đá xếp nương ngô, nương bí. Nếu không yêu, không thích tiếng khèn từ nhỏ, không say cái lóng gió gọi người yêu, không say những chợ phiên có bầu trời lộn ngược khi nhảy khèn chống vai xuống đất, giơ chân lên trời thì không bao giờ làm được. Vẫn biết rằng, ít nhất trong đời, các đứa con trai người Mông cũng một lần biết vuốt bầu gió, xoa lóng trúc, kiếm vỏ đào rừng hong khói bếp để làm cho mình một cây khèn tìm vợ...”.

 

“Sinh nghệ, tử nghệ, có giàu nghèo gì thì tôi vẫn làm khèn”, ông Pó bảo với tôi như thế. Và để có được cây khèn ưng ý, ông đã phải bỏ ra mười ngày, mười đêm ngồi tỉ mẩn bên bếp lửa mà nghe tiếng thở dài của vợ lúc đêm khuya. Cũng nghe anh cán bộ văn hóa xã Hố Quáng Phìn bảo đã có nhiều công ty du lịch tìm đến khảo sát muốn đưa làng khèn, cây khèn, nghề làm khèn trở thành một điểm đến của tour du lịch văn hoá, một tiềm năng du lịch trên vùng cao nguyên đá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách giữ gìn và phát triển làng khèn, một nơi đang lưu giữ hồn cho đá, cho bản sắc người Mông vùng cao nguyên đá./.

 

Nguồn: Báo Làng Việt

Cùng chuyên mục

TIN NỔI BẬT