Phát huy giá trị di sản vì sự phát triển bền vững nơi Non nước Cao Bằng
"Sức mạnh mềm" từ Di sản văn hóa của các dân tộc
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cao Bằng miền đất biên viễn có bề dày lịch sử hơn 500 năm với hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng, độc đáo, giàu giá trị. Các di sản văn hóa không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần cho con người và xã hội, mà còn là nguồn lực quý giá để phát triển ngành du lịch theo hướng bền vững.

Múa chầu trong diễn xướng then Tày.
Theo thống kê của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến nay, toàn tỉnh có 2.002 di sản văn hóa phi vật thể. Các di sản văn hóa phi vật thể gồm: Tiếng nói 6 di sản, chữ viết 2 di sản, ngữ văn dân gian 150 di sản, nghệ thuật trình diễn dân gian 300 di sản, tập quán xã hội và tín ngưỡng 745 di sản, lễ hội truyền thống 200 di sản, nghề thủ công truyền thống 112 di sản, tri thức dân gian 487 di sản. 9 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia gồm: Nghi lễ Then Tày tỉnh Cao Bằng; Lễ hội Nàng Hai tại xã Thạch An, Lễ hội Tranh đầu pháo tại xã Quảng Uyên; nghề rèn truyền thống của người Nùng An xã Quảng Uyên; Lượn cọi dân tộc Tày tại xã Bảo Lâm; Nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục người Dao Đỏ tại xã Nguyên Bình; Chữ Nôm của người Tày; kỹ thuật in hoa văn bằng sáp ong của người Dao Tiền; nghệ thuật vẽ tranh thờ của người Dao Đỏ tại xã Thanh Long; di sản nghi lễ Then Tày, Nùng, Thái được ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Về di sản văn hóa vật thể hiện nay, toàn tỉnh có 271 di tích, trong đó, có 103 di tích đã được xếp hạng, có 3 di tích quốc gia đặc biệt, 26 di tích cấp quốc gia, 74 di tích cấp tỉnh, 2 bảo vật quốc gia gồm: đôi chuông chùa Viên Minh, đền Quan Triều, phường Thục Phán và Bia Ma nhai Ngự chế của vua Lê Thái Tổ tại xã Hòa An. Tại kho cơ sở Bảo tàng tỉnh có 16.968 đơn vị hiện vật. Với kho tàng di sản văn hóa không nhỏ này, không chỉ tạo nên sự đa dạng, phong phú và đặc sắc của nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mà còn là nhân tố, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên phương diện đó, nhiều di sản văn hóa của tỉnh đã trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển du lịch. Đây chính là những vốn quý góp phần định vị thương hiệu Cao Bằng trong thời kỳ hội nhập toàn cầu và phát triển của miền Non nước Cao Bằng.
Phát triển bền vững từ nguồn lực di sản văn hóa
Nhiều năm gần đây, tỉnh ngày càng coi trọng nguồn lực di sản và trân trọng di sản văn hóa nói riêng, văn hóa truyền thống nói chung là một loại tài nguyên quan trọng. Lãnh đạo các cấp và các cơ quan chuyên môn của tỉnh đã hoạch định những giải pháp phù hợp, sử dụng các giá trị di sản phù hợp để làm động lực, làm chất xúc tác cho phát triển bền vững. Nhờ nguồn kinh phí của Chính phủ hỗ trợ cho tỉnh để bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phục hồi các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh được quan tâm tu bổ, tôn tạo đã trở thành điểm đến hấp dẫn thu hút ngày càng đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế tới tham quan, trải nghiệm, nghiên cứu dân tộc học, văn hóa học… Bên cạnh đó, các di sản văn hóa phi vật thể cũng được sưu tầm nghiên cứu, phục dựng, trao truyền và tổ chức trình diễn, trực tiếp nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế - xã hội cộng đồng cư dân tại địa phương. Nhiều nhóm cộng đồng tham gia một cách chủ động, có ý nghĩa và tự nguyện để bảo vệ di sản văn hóa. Sự tham gia này không chỉ thể hiện ở con số thống kê, số lượng các di tích được trùng tu, tôn tạo, số lượng câu lạc bộ nghệ thuật được thành lập ngày càng tăng, số lượng người tham gia thực hành di sản ngày càng nhiều... mà còn ở chính sự tâm huyết với di sản, khao khát truyền dạy di sản cho thế hệ sau, sự tự nguyện đầu tư công sức, tiền của cho việc trùng tu, tôn tạo và bảo vệ di sản văn hóa...

Nghi lễ tiễn Nàng Hai trong Lễ hội Nàng Hai xã Thạch An.
Tại miền Non nước Cao Bằng, nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành những điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước, tạo nên thương hiệu, dấu ấn riêng của Cao Bằng - miền đất giàu di sản như: Nghi lễ diễn xướng Then phủ khắp toàn tỉnh, Lễ hội Đền Vua Lê, chùa Đà Quận, chùa Đống Lân, Đền Kỳ Sầm, Bà Hoàng, hội Pháo hoa, hội Thanh Minh, Lễ hội Nàng Hai; ngoài ra du khách còn tham quan trải nghiệm tại các làng nghề như: nghề dệt thổ cẩm Tày tại xóm Luống Nọi, xã Hà Quảng; đan lát mây tre tại các xã Minh Khai, Canh Tân; nghề chạm bạc của người Dao Đỏ tại xã Nguyên Bình; nghề làm giấy bản, làm hương, làm ngói máng của người Nùng An, xã Quảng Uyên…
Sự thay đổi vượt bậc này hàm chứa nhiều thực tiễn điển hình của quá trình giảm nghèo, thông qua tạo việc làm cho nhiều người lao động, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư địa phương tại nơi có di sản. Ở nhiều địa phương, di sản văn hóa đã góp phần lớn trong việc dịch chuyển và thay đổi cơ cấu kinh tế. Với những tiến bộ công nghệ và ứng dụng chuyển đổi số, việc áp dụng công nghệ mới trong quản lý và bảo tồn di sản văn hóa không chỉ hữu ích trong công tác bảo tồn, tạo kho tàng lưu giữ thông tin chi tiết về các giá trị vật thể và phi vật thể mà còn tạo nền tảng khai thác, quảng bá tối đa tiềm năng của di sản trong công nghiệp văn hóa.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, có ý nghĩa trong việc giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, đồng thời là phương tiện để giới thiệu, quảng bá về hình ảnh, vùng đất, con người Cao Bằng đến du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt là việc đề xuất các giải pháp gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững.
Thiên Phước













